image banner
Thành tựu kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015

1. Kinh tế có bước phát triển khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, sản xuất kinh doanh một số ngành, lĩnh vực có chuyển biến, tiến bộ:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 10,10%; trong đó, tăng trưởng các ngành do huyện quản lý: công nghiệp-xây dựng 18,5%; các ngành dịch vụ 9,90%; nông, lâm, thuỷ sản 4,30%. Tỷ trọng các ngành (phần huyện quản lý): công nghiệp- xây dựng tăng từ 4,6% năm 2005 lên 11,34% năm 2010; các ngành dịch vụ tăng từ 29,2% năm 2005 lên 31,02% năm 2010; nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 66,2% năm 2005 xuống còn 57,64% năm 2010. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt trên 1.211 tỷ đồng vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Nông, lâm, ngư nghiệp có bước phát triển khá. Tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 1994) toàn ngành thực hiện đến năm 2010 (do huyện quản lý) đạt 133 tỷ đồng. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt trên 6.000 ha; trong đó, diện tích lúa nước tăng nhanh từ 4.072 ha năm 2005 lên 4.500 ha năm 2010; năng suất lúa nước đạt khá, dự kiến năm 2010 đạt 47 tạ/ha tăng so với năm 2005 là 3 tạ/ha. Diện tích lúa rẫy giảm nhanh, đến nay chỉ còn dưới 400 ha, giảm 150 ha so với năm 2005. Tổng sản lượng lương thực năm 2010 đạt 22.395 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 345,7 kg.

Cơ cấu cây trồng đã được bố trí hợp lý hơn trước, các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày đã xác định được hướng đi đúng cho ngành nông nghiệp, trong đó những cây có giá trị kinh tế cao như cây mía nguyên liệu, ngô,...

Chăn nuôi được xác định là lợi thế của huyện nên việc đầu tư phát triển tổng đàn được đẩy mạnh; đàn trâu 23.500 con, tăng 2.000 con so với năm 2005; đàn bò 13.200 con, tăng 3.200 con so với năm 2005, trong đó bò lai sind tăng từ 346 con năm 2006 lên 1.700 con năm 2009, dự kiến năm 2010 đạt 2.100 con; đàn lợn 28.000 con, tăng 6.000 con so với năm 2005; đàn gia cầm 253.000 con, tăng 73.000 con so với năm 2005; đàn vịt bầu đã được đầu tư khôi phục và phát triển. Sản lượng thịt hơi xuất bán và giết thịt hàng năm đạt bình quân trên 2.000 tấn, đến năm 2010 ước đạt 2.494 tấn. Số bản đã được quy hoạch vùng chăn thả tăng từ 28 bản năm 2006 lên 80 bản; đầu tư con giống từ các chương trình dự án và công tác thú y được chú trọng.

Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ước đạt 190ha, sản lượng 307 tấn tăng 70,5% so với năm 2005.

Lĩnh vực lâm nghiệp tăng trưởng khá; việc lồng ghép các chương trình dự án đầu tư như chương trình 661, Quyết định 147, chương trình trồng rừng thay thế nương rẫy, chương trình hỗ trợ theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và đầu tư sản xuất trang trại đã tổ chức trồng được 2.372 ha rừng tập trung, 190,2 ha rừng phân tán; tổ chức khoanh nuôi, bảo vệ 141.211,79 ha, từ đó đã đưa độ che phủ rừng tăng từ 71,6% lên trên 75%. Không xảy ra cháy rừng. Khai thác lâm sản phụ tăng hàng năm, dự kiến đến năm 2010 đạt 120.000m3 củi, 2.020.000 cây tre mét, 3.050.000 cây nứa, 1100 tấn măng tươi và nhiều lâm sản phụ khác có giá trị kinh tế cao.

Công tác xây dựng phát triển nông thôn mới được quan tâm và đạt một số kết quả đáng ghi nhận. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách về ổn định đời sống và sản xuất cho nhân dân, như chương trình xoá nhà ở dột nát tạm bợ, hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, trợ cước, trợ giá các mặt hàng chính sách, hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao năng lực quản lý điều hành. Từng bước giải quyết vấn đề ăn, ở, học hành, chữa bệnh và hưởng thụ văn hoá cho nhân dân. Triển khai tốt dự án tái định cư Piếng Luống, xã Nậm Giải; bản Tục và bản Pang xã Đồng Văn; quy hoạch dân cư biên giới theo Quyết định 160TTg; dự án di dân ra khỏi vùng lũ quét; giải phóng mặt bằng và tái định cư công trình thuỷ điện Hủa Na và các công trình giao thông trên địa bàn.

Mô hình kinh tế trang trại nông, lâm, thuỷ sản kết hợp tăng nhanh theo từng năm, đến nay toàn huyện có 127 trang trại, trong đó có 67 trang trại cho thu nhập bình quân mỗi năm từ 25-30 triệu đồng.

Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (CN, TTCN), đầu tư xây dựng chuyển biến rõ nét; tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 1994) năm 2010 (do huyện quản lý) đạt 43 tỷ đồng, góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm cho người lao động. Các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp ngày càng đa dạng, sản phẩm chủ yếu là khai thác mỏ, vật liệu xây dựng, mộc dân dụng, gò hàn, may mặc vv.. Đầu tư xây dựng 06 nhà máy thủy điện, đã hoàn thành và phát điện 02 nhà máy với tổng công suất 21MW.

Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển khởi sắc, tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 1994) năm 2010 (do huyện quản lý) đạt 84 tỷ đồng; hệ thống nhà nghỉ, ăn uống, vận tải và bưu chính viễn thông, internet tăng khá nhanh và kinh doanh có hiệu quả cao. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng từ 167,6 tỷ đồng năm 2005 lên 442 tỷ đồng năm 2010; các cơ sở kinh doanh cá thể liên tục tăng, đến cuối năm 2009 có 403 cơ sở kinh doanh cá thể trong tổng số 450 cơ sở kinh doanh toàn huyện. Đã có 11/14 xã thị được sử dụng được điện thoại di động, 14/14 xã thị sử dụng được điện thoại cố định, đưa tổng số máy cố định trên địa bàn từ 1.200 máy năm 2005 lên hơn 3.200 máy năm 2010; bình quân 5 máy/100 dân. 120 thôn bản của 11/14 xã, thị trấn được sử dụng điện lưới quốc gia, đưa tỷ lệ hộ dân được dùng điện lưới lên 64,26%. Số hộ dân sử dụng nước sinh hoạt tương đối hợp vệ sinh đạt 80%.

Thu ngân sách có bước tiến bộ vượt bậc, tổng thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều tăng ở mức trên 150%, năm 2010 ước thu ngân sách đạt 9,6 tỷ đồng, tăng 7,4 lần so với năm 2005. Chi ngân sách đáp ứng các nhu cầu cho hoạt động quản lý và sự nghiệp, tạo điều kiện cho chi đầu tư phát triển.

Hoạt động tín dụng và tiền tệ có nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân vay vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Số dư huy động vốn năm 2005 đạt 45 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt 231 tỷ đồng. Số dư nợ cho vay năm 2005 đạt 55,6 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt 156 tỷ đồng.

2. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đã được chú trọng đầu tư làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt huyện nhà:

Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội do Trung ương, bộ ngành quản lý tăng từ 496 tỷ đồng năm 2006 lên 1.837 tỷ đồng năm 2010; do địa phương quản lý tăng từ 90 tỷ đồng năm 2006 lên 530 tỷ đồng năm 2010; trong đó xây dựng cơ bản 490 tỷ đồng. Giá trị thực hiện Giao thông nông thôn đạt 150 tỷ đồng, xây dựng được 55,4 km đường nhựa, 8 km đường bê tông. Một số công trình trọng điểm đã và đang được thi công: Đường Tiền Phong-Hạnh Dịch, đường vào trung tâm xã Đồng Văn, Nậm Nhóng, đường Kim Sơn-Quế Sơn; Cầu treo bản Quàng xã Châu Thôn, cầu treo bản Quyn- bản Pảo xã Quang Phong, cầu treo bản Long Quang xã Tiền Phong. Có thêm 06 xã được dùng điện lưới quốc gia, các công trình thủy lợi, nước sạch được đầu tư sửa chữa, xây dựng mới; số phòng học được kiên cố hoá đạt 52,2%; ngoài ra hàng năm nhân dân tự huy động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều tỷ đồng.

Công tác quy hoạch phát triển đô thị đã được chú trọng, hoàn thành quy hoạch mở rộng thị trấn Kim Sơn, hoàn chỉnh đầu tư về kết cấu hạ tầng 2 trung tâm cụm xã Châu Thôn và Đồng Văn; đang chuẩn bị triển khai xây dựng bằng vốn lồng ghép chương trình 30a CP cụm xã Tri Lễ.

3. Công tác quản lý tài nguyên và môi trường đã được chú trọng, hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, cấp xã đến năm 2010; đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân (trong đó đất lâm nghiệp đạt 100%, đất ở đô thị đạt trên 80%); rà soát việc sử dụng đất của các tổ chức trên địa bàn...; tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành Luật khoáng sản, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, truy quét khai thác khoáng sản trái phép.

4. Văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, bản sắc văn hoá các dân tộc được quan tâm giữ vững và phát huy; đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao:

Lĩnh vực giáo dục đào tạo có bước chuyển biến rõ nét; thực hiện cuộc vận động “hai không” đã đem lại hiệu quả thiết thực; 100% giáo viên đạt chuẩn và đạt trên chuẩn 48%, số học sinh giỏi và giáo viên dạy giỏi các cấp ngày càng tăng. Số học sinh thi đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng ngày càng cao, trong đó có nhiều học sinh người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn. Mạng lưới trường lớp ở tất cả các bậc học, ngành học được bố trí khá hợp lý. Cơ sở vật chất trường, lớp học từng bước được cải thiện theo hướng kiên cố hoá. Việc xây dựng trường chuẩn quốc gia, trường chất lượng cao đã được quan tâm chỉ đạo. Công tác khuyến học đã được quan tâm, bước đầu hình thành một số mô hình khuyến học trong các cơ quan, dòng họ, thôn bản khá hiệu quả. Đến nay đã có 10 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia mức 1 và 1 trường đạt cấp độ 2, có 578 phòng học được kiên cố hoá.

Hoạt động khoa học, công nghệ đang từng bước hướng vào mục tiêu đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào phục vụ sản xuất và đời sống, nâng cao hiệu quả công tác trên các lĩnh vực.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được quan tâm; thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, 96 % trẻ dưới 1 tuổi được tiêm phòng đầy đủ; bệnh sốt rét và một số bệnh dịch khác được khống chế. Y tế cơ sở được củng cố, cơ sở vật chất, trang thiết bị được bổ sung từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân; 10/14 xã thị có bác sỹ, 7/14 xã thị được công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.

Công tác dân số-gia đình và trẻ em đã được triển khai bằng nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động và đã đem lại kết quả thiết thực. Số người sinh con thứ ba trở lên giảm dần, đã đưa tỷ lệ sinh giảm từ 16‰ năm 2005 xuống 14,4‰ năm 2010, trong đó tỷ lệ sinh con thứ 3 đến năm 2010 giảm xuống còn 9,8%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi từ 31,5% năm 2005 xuống còn dưới 23% năm 2010.

Các hoạt động văn hoá, thể thao ngày càng phát triển sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân; cơ sở vật chất phục vụ cho văn hoá, thông tin- thể thao của các cơ sở được đầu tư bằng các chương trình, dự án đã góp phần đưa thông tin về cơ sở, tuyên truyền những chủ trương, chính sách, vận dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất; công tác cải tạo tập tục lạc hậu nhất là trong việc cưới, việc tang, ăn ở hợp vệ sinh đã có những chuyển biến rõ nét. Khôi phục và bước đầu phát huy có hiệu quả di tích lịch sử văn hóa Đền Chín gian và các hoạt động mang đậm bản sắc văn hoá đồng bào các dân tộc miền Tây Nghệ An. 70% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 35% xóm, bản đạt tiêu chuẩn “ Làng Văn hoá”.

Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội được quan tâm chỉ đạo; mỗi năm tạo việc làm mới cho 700 đến 1.500 lao động, trong đó đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài từ 100 đến 120 người. Tập trung hướng dẫn các xã, thị xây dựng các dự án vay vốn nhỏ, giải quyết việc làm tại chỗ cho người dân. Đã huy động mọi nguồn lực và tổ chức xóa xong 2.689/2.689 hộ có nhà ở dột nát tạm bợ, góp phần hạ tỷ lệ đói nghèo từ 59,51% năm 2005 xuống còn 40,08% năm 2010. Thu nhập bình quân đầu người (giá hiện hành) tăng từ 4,26 triệu đồng năm 2005 lên 10,15 triệu đồng năm 2010; trong đó phần huyện quản lý 7,07 triệu đồng. Làm tốt công tác chăm sóc người có công, thường xuyên quan tâm chăm lo các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 67/CP, Nghị định 13/CP; chỉ đạo tốt công tác cứu trợ cho đồng bào bị ảnh hưởng do lũ, lốc và trong dịp đói giáp hạt.

5. Quốc phòng, an ninh ngày càng được củng cố, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, góp phần ổn định chính trị:

Năm năm qua, mặc dù tình hình thế giới, khu vực, trong nước cũng như phía Tây tỉnh Nghệ An diễn biến phức tạp nhưng an ninh chính trị luôn được củng cố và giữ vững. Lực lượng vũ trang huyện đã làm tốt chức năng tham mưu kịp thời cho cấp uỷ, chính quyền để đề ra chủ trương và giải pháp sát đúng, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương đạt hiệu quả cao. Nhận thức về đường lối quân sự - quốc phòng của Đảng đối với các cấp, các ngành từng bước được nâng lên. Từ đó việc triển khai thực hiện có nhiều chuyển biến tích cực, rộng khắp. Thông qua những mục tiêu và chỉ tiêu trên giao, chúng ta đã thực hiện tốt mọi nhiệm vụ: từ tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang, giáo dục quốc phòng, huấn luyện chiến đấu, hoàn thành xuất sắc diễn tập khu vực phòng thủ cũng như động viên tuyển quân và thông qua việc xây dựng cơ sở ATLC-SSCĐ đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định, không để đột xuất, bất ngờ xảy ra. Lực lượng công an huyện không ngừng phát triển vững mạnh, làm tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 08/BCT của Bộ Chính trị về “Chiến lược an ninh quốc gia”. Chủ động phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể giáo dục tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác cho nhân dân, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thực hiện tốt kế hoạch “2 yên, 4 giảm”. Tăng cường đấu tranh triệt phá nhiều đường dây, tụ điểm, đối tượng phạm tội ma tuý, các ổ nhóm trộm cắp tài sản, hoạt động tệ nạn xã hội. Đồng thời phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật làm tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng pháp luật. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; góp phần đảm bảo tốt an ninh trật tự, tạo môi trường thuận lợi phục vụ tốt sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và ổn định đời sống của nhân dân.

Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được tiến hành khá thường xuyên và kịp thời, góp phần ổn định an ninh trật tự, không để xẩy ra “điểm nóng”.

Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, quan hệ hữu nghị đặc biệt với huyện Xăm Tảy (Lào). Thực hiện tốt chế độ giao ban xã, huyện, các ngành nội chính với bạn; giải quyết tốt các vấn đề về di dịch cư, hồi cư, xâm canh... góp phần bảo vệ an ninh biên giới và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Đạt được những kết quả trên chính là nhờ sự quan tâm giúp đỡ, đầu tư có hiệu quả của Trung ương, của tỉnh; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh; sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện nhà; các chương trình, dự án đầu tư trên địa bàn đã góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.

THÔNG BÁO
Đăng nhập

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN QUẾ PHONG
Cơ quan chủ quản: UBND huyện Quế Phong
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Văn Hiền - PCT UBND Huyện
Cơ quan thường trực: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Quế Phong
Trụ sở: khối Tây Sơn, thị trấn Kim Sơn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An
Email: quephong@nghean.gov.vn