Quế Phong, là huyện vùng cao biên giới, nằm về phía tây bắc của tỉnh Nghệ An. Là một phần máu thịt của đất nước, lịch sử, đất và người Quế Phong luôn gắn với lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung, của tỉnh Nghệ An nói riêng. Vị trí nơi đây không chỉ có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc, mà còn có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế- văn hoá ở khu vực miền tây xứ Nghệ.
Theo “Đại việt sử ký toàn thư” Đời Lê, Quế Phong vốn là huyện Trung sơn, gồm 16 động, thuộc phủ Quỳ Châu, và do phủ này kiêm lý. Năm 1836 đổi thành tên Quế Phong. Thời Pháp thuộc, Quế Phong lại nhập vào Quỳ Châu, chính xác hơn là ngày 22/10/1907, toàn quyền đông dương ra Nghị định chia phủ Quỳ Châu ra làm 2 đơn vị hành chính đó là huyện Nghĩa Đàn và Phủ Quỳ Châu.
Phủ Quỳ Châu lúc đó có 11 tổng, bao gồm toàn bộ phần đất của các huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp và 1 phần đất của huyện Nghĩa Đàn ngày nay. Sau cách mạng tháng tám năm 1945, Phủ Quỳ Châu được gọi là huyện Quỳ Châu. Ngày 19/4/1963, chính phủ ra quyết định số 52/CP, về việc chia lại địa giới 3 huyện của tỉnh Nghệ An. Trong đó huyện Quỳ Châu tách thành 3 huyện: Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Quế Phong.
Đổi tên, tách- nhập, nhập-tách, nhưng lịch sử Quế Phong luôn gắn liền với lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung, phủ Quỳ Châu -Nghệ An nói riêng.
Theo “Dư địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh”, xa xưa con đường chiến lược từ Ninh Bình-qua Như Xuân (Thanh Hóa, qua Quế Phong, Quỳ Châu, Hương Khê (Hà Tĩnh) từ đó đi thẳng vào Tuyên hóa (Bình trị thiên), vào Tây nguyên, hoặc rẽ sang Lạc hôn (Lào), đi Xiêm La (Thái lan). Kể từ thời Mai thúc Loan chống Đường, Lê lợi chống Minh, Lê Duy Mật chống Trịnh. Hàm Nghi, Phan Đình Phùng chống pháp, các thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân ở Diễn Châu, Hương Sơn đều sử dụng thông thạo tuyến đường huyết mạch này để chở quân lương, khí giới. Điều đó cho thấy sông-núi Quế Phong là một bộ phận không tách rời của tổ quốc. TL số 24( Tr60).
Năm 1424 Chủ soái Lê Lợi, cùng Nguyễn Trãi, theo hiến kế của tướng Nguyễn Chích đã kéo đại quân từ Lam Sơn Thanh Hóa - vào Nghệ An, lập các tuyến phòng thủ để chống giặc Minh. Hiện nay trên đất Quế Phong còn lưu lại hầm hào, ở Pỏm Piệt, bên hữu ngạn sông Chu, kề với bản Ăng-xã Thông Thụ, Hầm Hào tại bản Tục- Đồng Văn, hầm hào ở Phú Đốn -Tiền Phong, Tèn Đốn-Châu Kim là những hầm hào có chiều rộng khoảng 3m, độ sâu 2m, đều là những dấu ấn của lịch sử chống giặc, giữ nước. ông Lô Văn Nhân - Nguyên phó Bí thư Thường trực Đảng xã Thông Thụ giai đoạn 1980-1981 từng cho biết:“Pỏm Piệt là 1 chứng tích, chống giặc Minh, Thời kỳ tướng Lê Lợi, Nguyễn Chích, xây dựng hầm hào ở đó, để chống giặc Minh, khu vực Pỏm Piệt là 1 cái đồi cao. Dưới góc nhìn quân sự, đứng trên đồi Pỏm Piệt có thể nhìn thầy hết toàn bộ khu vực sông Chu và khe Piệt, toàn bộ thôn bản cách chỗ đứng 2 cây số, mới thấy Pỏm Piệt có ý nghĩa như thế nào”
Theo Sử sách ghi lại, khi nghĩa quân Lê Lợi vào đến Bù Đơn-Châu Hội-Quỳ Châu thì bị giặc Minh đánh chặn cả hai phía trước và sau. Dựa vào núi non hiểm trở, thung lũng hẹp và khe suối nhỏ, Lê Lợi đã bày binh bố trận với một chiến thuật rất tài tình. Quân Minh bị tấn công bất ngời. Chủ tướng Trần Trung cùng hơn 2.000 quân bỏ mạng, quân ta thu được trên 100 ngựa chiến và nhiều vũ khí lợi hại. Chiến thắng bồ đằng” sấm vang chớp giật” đã khai thông con đường mà đại quân Lam Sơn tiến từ Thanh Hóa- vào Nghệ An qua Quế Phong.
Đại Nam nhất thống chí còn ghi: Thời Thuộc Minh, ở Phủ Quỳ có “Cầm Quý”. ở Mường Tôn, (mường gốc của Quế Phong) có Cầm Công” làm tù trưởng đã vận động, góp của cải, cùng dân binh gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, cùng với hơn 5 vạn trai tráng của Nghệ An, còn có hơn 500 đinh tráng, tù trưởng của dân tộc Thái, góp sức tạo thế “Chẻ tre”, giải phóng thành trà lân, đã được vua khao thưởng.
Thời thuộc Pháp, dưới sự áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân, hơn 99% dân chúng mù chữ, không biết tiếng kinh, dân cày không có đất để cắm dùi. Bọn chúa đất và 1 số thổ ty, lãnh đạo dựa dẫm, làm tay sai cho thực dân pháp, ra sức bóc lột, kìm kẹp dân nghèo. Thủa đó, Muối ăn là sự xa xỉ, ai nạp đủ tô, đủ thuế mới được mua muối. Nhưng phải đi bộ hoặc xuôi bè nứa về tận Thái Hòa, Nghĩa Đàn mất 3-4 ngày mới mua được muối ăn, đưa ngược về miền núi Quế Phong.
Không chịu sự áp bức, bóc lột, nhân dân ta đã hăng hái tham gia các phong trào Cần Vương với các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã, Cầm Bá Thước, Gương Dũng cảm của ông Lang Đốc Thiết và hai anh em Quản Thông, Quản Thụ được sử sách ghi lại và đời đời con cháu trên quê hương ngưỡng mộ. Là một phần máu thịt của đất nước, lịch sử, đất và người Quế Phong gắn liền với lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung, của tỉnh Nghệ An nói riêng.
Quế Phong 59 năm xây dựng và phát triển
Đến thời kỳ cách mạng Việt Nam, có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng với Nhân dân cả nước, Nhân dân các dân tộc huyện Quế Phong đã dần dần giác ngộ ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là xô viết Nghệ Tĩnh có ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước và cách mạng ở miền núi Nghệ An và điều vô cùng vinh dự của Nghệ An, là quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, Người đã đưa dân tộc lên đường đánh Pháp, đuổi Nhật, Chống Mỹ, đi đến tòan thắng, giành được độc lập tự do cho tổ quốc. Người khởi sự cho lý tưởng xây dựng một xã hội hạnh phúc, ấm no, dân chủ và công bằng đầu tiên ở Đông Nam - Châu Á. Mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ con người thoát khỏi gông xiềng, và nô lệ, đứng lên làm chủ.
Tháng 6 năm 1946, lớp đảng viên đầu tiên của huyện Quỳ Châu cũ gồm 7 đảng viên đã được kết nạp tại bản Cỏ Ba (Mường Mừn) thuộc xã Mường Nọc-huyện Quế Phong, sau đó mở rộng sang các vùng, kết nạp thêm nhiều đảng viên mới.
Năm 1963, cùng với nhiều đơn vị hành chính trong cả nước, huyện Quỳ Châu được chia tách thành 3 huyện: Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Quế Phong. Thời điểm này Đảng bộ huyện Quỳ Châu tiến hành đại hội lần thứ V, cũng để bầu và chia tách thành 3 đảng bộ mới. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quế Phong được thành lập với 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Công được giữ chức vụ bí thư huyện uỷ, đồng chí Lang Văn Toàn làm Phó Bí thư, Chủ tịch uỷ ban hành chính huyện Quế Phong. Dân số của huyện Quế Phong lúc này chỉ là 2.564 hộ/16.134 khẩu, chủ yếu là dân tộc Thái, dân tộc Mông, K Mú. Cùng với một số ít cán bộ còn có 50 giáo viên miền xuôi được phân công lên vùng cao Quế Phong công tác. Có thể nói đây là một trong những thế hệ người Kinh đầu tiên có mặt tại huyện Quế Phong và sinh cơ lập nghiệp sau này. Nhiệm vụ của họ là vừa dạy xóa mù, dạy bổ túc văn hóa, vừa giúp các xã biên giới về an ninh Quốc Phòng.
Chỉ sau 3 năm thành lập huyện, Nhân dân hầu hết đã biết con chữ, trình độ văn hoá của cán bộ chủ chốt xã, được nâng lên. Quá trình phát triển 2 ngành học, bổ túc văn hoá và phổ thông, đã thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Đến năm 1965, huyện Quế Phong được công nhận hoàn thành bổ túc văn hoá 5 năm lần thứ nhất, trước thời hạn 1 năm và được Bác Hồ gửi thư khen ngợi. Trong thư có đoạn viết:
“Bác vui lòng khen ngợi đồng bào và cán bộ các dân tộc trong toàn huyện đã cố gắng và đã hoàn thành tốt kế hoạch 5 nǎm bổ túc vǎn hoá trước thời hạn một nǎm. Bác mong rằng đồng bào và cán bộ huyện nhà ra sức thi đua đạt nhiều thành tích trong tǎng gia sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và tiếp tục học tập để tiến bộ hơn nữa, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta. Bác thân ái gửi lời hỏi thǎm các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng”
Thực hiện lời thư của Bác và lời kêu gọi của người “không có gì quý hơn độc lập, tự do” lớp lớp thanh niên Quế Phong đã hăng hái lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu, nhiều người đã hy sinh trên các chiến trường, máu của các anh đã tô thắm thêm màu đỏ của lá cờ tổ quốc. Nhiều người trở về với tấm thân không lành lặn, toàn huyện có hàng trăm liệt sỹ, hàng trăm thương binh, bệnh binh và nhiều người nhiễm chất độc da cam dioxin.
Vừa chiến đấu, vừa sản xuất giỏi, các phong trào “vững tay cày- chắc tay súng” xây dựng lực lượng dân quân tự vệ quyết thắng được dấy lên rất sôi nổi, lực lượng du kích các xã thành lập tổ săn máy bay địch, nổi bật là trung đội dân quân bản Lốc-xã Thông Thụ, đã dùng súng bộ binh bắn rơi máy phản lực của Mỹ. Với chiến công của đảng bộ và dân quân, xã Thông Thụ đã vinh dự được phong tặng đơn vị anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau khi đất nước hoà bình thống nhất, đảng bộ và nhân dân huyện Quế Phong cùng với nhân dân cả nước ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ tổ quốc, bước đầu đảng bộ huyện xác định, phát triển kinh tế trên 3 thế mạnh đó là: Trồng trọt, chăn nuôi và nghề rừng. Nét nổi bật trong giai đoạn này là đưa chủ trương “Khoán sản phẩm đến đội” không cấm làm rẫy mà “Cấm làm rẫy không hợp lý” nhằm thúc đẩy sản xuất đa dạng hoá. Người nông dân đã cơ bản làm chủ cụôc sống của mình, có công cụ lao động, nhờ thế mà trang trải được lương thực, chấm dứt cơ bản về nạn đói dai dẳng từ lâu đời. Với thành tích đó, Quế Phong được tuyên dương trong hội nghị tổng kết lương thực toàn miền Bắc.
Bước sang thời kỳ đổi mới, dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội lần thứ 6 TW đảng, các Nghị quyết của tỉnh, của huyện, Quế Phong đã có sự thay đổi về cách nghĩ, cách làm. Đồng thời Quế Phong cũng nhanh chóng nắm bắt và thực hiện thành công các chủ trương, cơ chế quản lý, và đường lối đổi mới của đảng. Bằng sự đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của huyện uỷ, sự quản lý điều hành của UBND huyện và các ban ngành chức năng, đã tạo bước chuyển mới trong nhận thức tư tưởng đối với cấp uỷ, chính quyền các cấp, đối với đảng bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Đảng Bộ Quế Phong, nếu tính từ khi hình thành đảng bộ Quỳ Châu cũ đến nay đã được 65 năm, nhưng nếu tính từ khi tách huyện thì đã được 59 năm, với 23 kỳ đại hội. Qua gần 60 năm xây dựng và phát triển, Quế Phong có 13 xã, thị trấn với số dân gần 16.085 hộ/ 75.129 khẩu, tăng gần gấp 5 lần so với khi mới tách huyện.
Từ khi thành lập đến nay, bất cứ thời điểm lịch sử nào, cũng có những khó khăn phức tạp riêng, nhưng những đảng viên, những vị cốt cán của huyện Quế Phong luôn vững tin theo Đảng, theo Bác, là hạt nhân lãnh đạo các phong trào cách mạng quần chúng, luôn trăn trở, tìm cách đưa đưa ánh sáng đến với người dân. Vận động nhân dân khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích lúa nước, đưa nhân dân thoát khỏi cảnh sống tăm tối, có cuộc sống tự do, tự chủ, không chỉ no cơm, ấm áo, mà còn làm ra nhiều của cải để tích trữ làm giàu.
Với ý chí tự lực tự cường, quyết tâm xóa đói, giảm nghèo, với cách nhìn thông thoáng hơn về cơ chế mới, với sự đoàn kết trong đảng và giữa các dân tộc, giữa các địa phương, luôn phát huy nội lực, cùng với sự thu hút đầu tư của các chương trình, dự án nhờ vậy nên kinh tế đã có bước khởi sắc rõ rệt, Quế Phong đã dần xoá hộ thiếu đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu, thu nhập bình đầu người năm sau cao hơn năm trước, đời sống văn hoá được cải thiện, các hoạt động thể dục thể thao được duy trì và phát triển, Tỷ lệ hộ được xem truyền hình trên 95%. và chưa bao giờ các công trình xây dựng cơ bản ở Quế Phong lại phát triển với quy mô to lớn như giai đoạn hiện nay. Các công trình giao thông, thuỷ lợi, điện thắp sáng, trường học, trạm xá phủ khắp. Đường làng ngõ xóm, được bê tông hóa, đảm bảo, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Đặc biệt là trong vòng mươi năm trở lại đây, cùng với các công trình phúc lợi, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng trên địa bàn huyện, còn có 6 công trình thủy điện lớn nhỏ cũng đã xây dựng hoàn thành, hòa vào lưới điện Quốc Gia. Trong số đó có thể kể đến nhà mày Thủy điện Hủa Na với công suất 180M, góp phần tăng điện năng, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của huyện Quế Phong nói chung, cả nước nói riêng.
Cùng với đó, là Đền 9 gian, nơi lưu giữ và phát huy các giá trị văn hoá tâm linh, của đồng bào dân tộc Thái vùng Phủ Quỳ, được tôn tạo và phát triển. Đền 9 gian không chỉ là lễ hội văn hóa phi vật thể mà còn là chứng tích trong phong trào chống giặc giữ nước, giữ bản của nhân dân các dân tộc miền núi Quế Phong.
Truyền thuyết kể lại, xưa, người Thái vốn sinh sống ở một thung lũng mãu mỡ, nhưng một hôm có một nhóm người đến cướp phá. Họ phải bỏ nhà cửa, chạy thoát thân. Được sự dẫn dắt của Châu Mường, đã đưa bà con lên núi Pù Pỏm (Đền 9 gian) để tránh nạn. Bị bao vây suốt nhiều ngày đêm, chúng không cho dân ta xuống khe lấy nước, hòng làm bà con chết đói, chết khát. Nhưng với sự thông minh, bà con người Thái đã lấy gạo, đổ vào máng, tạo dòng chảy liên hoàn. Từ dưới núi nhìn lên, giặc cứ tưởng đó là máng nước, nghĩ Trời đất ủng hộ bà con người Thái, nên chúng đã tự rút lui. Chỗ bà con đổ gạo làm máng nước có tên là Tạt Cờ Xản” (Thác gạo). Muốn lên đền 9 gian, phải qua Am cỏ Phạt, qua “Tạt Cờ Xản”, qua :”Huống Cày Chì” mới lên tới đền 9 gian.
Quế Phong còn được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam, thắng cảnh đẹp như: Thăm mè Mọn ở xã Quang Phong, thác sao va, thác 7 tầng xã, làng Thái cổ xã Hạnh Dịch, Hồ đập Thuỷ điện Hủa Na, mỗi địa danh, mỗi tên đất, tên mường đều có những sự tích riêng, tạo nên một quần thể du lịch, chờ du khách thập phương khám phá. Và đặc biệt tù năm 2021 đến nay, nhờ chủ trương phát triển du lịch Homstay, một số chỉ dẫn như Famsay Nhật Minh, Hom stay Cọ Muồng, đã đi vào hoạt động, Điểm lưu giữ văn hoá nhà sàn bản Khoẳng Đổ-xã Châu Kim đang được đầu tư, và hy vọng trong tương lai không xa, nếu được đầu tư đúng mức, thì khu vực Châu Kim sẽ là một trong những điểm đến thú vị hấp dẫn du khách, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Nhân kỷ niệm 59 năm ngày thành lập huyện, ông Lô Chí Kiêm, nguyên bí thư huyện uỷ Quế Phong khoá XIX (2005-2010) đã chia sẻ “Lúc ông còn đương nhiệm, hạ tầng còn thiếu thốn, mọi thứ khó khăn, so với cách đây hơn 10 năm, thì giờ Quế Phong có những thay đổi rất lớn, so với các huyện miền núi Nghệ An thì Quế Phong phát triển rất nhanh”
Quả đúng vậy. Quế Phong - Quỳ Châu và Quỳ Hợp từ khi được tách ra tới nay, nhưng 3 huyện đã luôn phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó sắt son tình cảm anh em, đồng chí, thường xuyên động viên, giúp đỡ, trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, cùng hướng tới sự phát triển bền vững. Đặc biệt cả 3 huyện đều là đơn vị kết nghĩa với 3 đồn biên phòng Thông Thụ, Hạnh Dịch, Tri Lễ- Quế Phong, cùng chung tay xây dựng và bảo vệ biên cương, bảo vệ tấm phên dậu của Tổ Quốc.
.jpg)

Quế Phong ngày nay
Kỷ niệm 59 năm thành lập huyện Quế Phong, cũng là dịp vừa kỷ niệm xong 92 năm ngày thàng lập đảng cộng sản Việt Nam, là dịp để cháu con hôm nay tự hào hơn về mảnh đất Quế Phong, tự hào về truyền thống yêu nước của những người con can trường, nghị lực, chống chọi với thiên nhiên, anh dũng kiên cường chống giặc giữ bản, giữ mường. Tự hào, để mỗi cá nhân, cũng như cộng đồng 9 bản mường, tiếp tục phát huy hơn nữa truyền thống, đoàn kết, yêu thương, nỗ lực xây dựng Quế Phong yêu dấu, xứng đáng là tấm phên dậu vững chắc nơi biên cương của tổ Quốc./.
Lô Tím
Trung tâm VHTT&TT Quế Phong
Tháng 4/2022