Nơi mảnh đất biên cương gắn với lịch
sử oai hùng chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi của các dân tộc nơi thượng nguồn xứ Nghệ. Cũng chính nơi đây còn
lưu giữ nhiều câu chuyện huyền thoại về lịch sử khai đất, dựng Bản, lập Mường của
các bậc tiền bối. Bề dày lịch sử hàng nghìn năm gắn với bản sắc văn hoá đang được
khơi dậy với phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “xây dựng nếp sống văn hoá nơi cộng
đồng dân cư”. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương V khoá VIII, các đồng bào nơi thường nguồn đang
ngày càng tô thêm vẽ đẹp về đất nước, và con người, vùng thượng nguồn xứ Nghệ
“Quế Phong quê em nơi ngòn nguồn sông Hiếu, Quế Phong quê em đẹp nghĩa đẹp
tình”.
Đến với Quế
Phong, ít ai nghĩ rằng đây lại là một vùng đất sơn cước, bởi khung cảnh ở đây sơn
thuỷ hữu tình. Quế Phong là vùng đất nơi thượng nguồn của Nghệ An, có 7 con
sông phân bố đều trên diện tích toàn huyện, là phụ lưu của hai con sông lớn là
sông Chu và sông Hiếu. Hàng năm, khi những cơn lũ hung dữ kéo về không ít tai
hoạ, nhưng ngược lại, các dòng sông cũng ban tặng cho Quế Phong những cánh đồng
phù sa tươi tốt. Những mùa lúa bội thu, những cánh đồng ngô bạt ngàn đến tận
chân núi. Hơn hai nghìn hec ta ruộng nước, mỗi năm hai vụ lúa, cung cấp cho Quế
Phong hàng trăm tấn lương thực. Và dưới
những dòng sông hiền hoà lại có vô số các loài thuỷ sản. Các loại đặc sản như
cá mát, cá lăng, cá chình không bao giờ thiếu nơi mảnh đất thượng nguồn xứ Nghệ
này.
Quế Phong có
con sông Nậm Quàng, con sông mang vẻ đẹp thơ mộng, dòng nước trong xanh lững lờ
chảy qua vùng Quang Phong, Cắm Muộn (Cắm
Muộn cũ) “Cắm Muộn” tiếng Thái có nghĩa là tiếng nói hay quý như vàng “một
lời nói một gói vàng”, chỉ cư dân ở đây ăn nói lời hay ý đẹp. Nậm Quàng, là con
sông Bạc chảy giữa vùng đất Vàng Quang Phong và Cắm Muộn, rồi xuôi về dòng sông
Hiếu. Dưới lòng đất vùng Quang Phong, Cắm Muộn có một trữ lượng vàng khá lớn.
Hiện nay nhiều công ty khai khoáng đang mơ ước được vào đây khai thác.
Cận sông, cận suối
cho phép bà con Quế Phong tạo nên hàng nghìn ao hồ nuôi cá, nuôi ba ba và các
loài thuỷ sản khác. Quế Phong luôn giàu đặc sản, cộng với lòng hiếu khách của
bà con, đã để lại những ấn tượng khó phai với những ai đã một lần về thăm mảnh đất
này. Đến Quế Phong, mọi người sẽ được thưởng
thức rượu cần, loại rượu làm bằng nếp cẩm còn ngây ngất hương gạo mới, cùng với
cái ngọt dìu dịu của loại rượu được làm bằng men tự chế của bà con các dân tộc
anh em, nó làm vơi đi cơn khát của lữ khách lúc trưa hè oi ả. Cùng với điệu lăm
vông giàu bản sắc văn hoá vùng thượng nguồn là bài hát “ mời rượu cần” bày tỏ sự chân tình và gợi cảm của các cô gái
Thái.
Quế Phong có
diên tích rựng tự nhiên khá lớn. Trong đó có hàng nghìn hec ta đất lâm nghiệp.
Quế Phong là địa bàn được hưởng lợi từ các khu rựng nguyên sinh, đặc biệt là
khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống. Những nơi này còn giữ được vẻ nguyên sơ của
núi rừng. Hàng trăm hec ta rừng nguyên sinh với nhiều loại gỗ quý nằm trong
sách đỏ thế giới. Đó là pơ mu, sa mu, Lim, Lát hoa, đinh hương, xến, tấu, kim
giao… cùng với nhiều lâm đặc sản, dược liệu quý hiếm như sa nhân, Hà thủ ô,
nhân trần, sâm, câu y, mộc nhĩ, nấm hương… Không những thế, nơi đây còn bảo tồn
được nhiều loài đông vật quý hiếm.
Là một huyện rẻo
cao nơi thượng nguồn, địa hình rừng núi bị chia cắt cùng với nhiều núi đá vôi,
lèn đá, tạo nên những hang động có vẻ đẹp nổi tiếng như Thẳm Mẹ Mọn, Thẩm Binh,
Thẩm Nậm, Thẳm Chàng ở vùng Quang Phong, Cắm Muộn.
Cùng với những
công cụ sản xuất thô sơ mà bà con còn lưu giữ, những cọn nước (guồng nước) ngày
đêm miệt mài đổ nước lên những cánh đồng, những chiếc cối gạo nương dùng sức nước
cần mẫn đem lại cho bà con những hạt gạo trắng ngần mà không mất sức xay giã.
Những vật dụng cổ truyền này đang góp phần tạo nên một vẻ đẹp thơ mộng mang
chút hoang sơ mà chỉ ở miền sơn cước mới có.
Huyện Quế Phong
có bốn con thác lớn, đó là thác Tả Pấng, thác 9 tầng, thác Sao Va (Hạnh Dịch)
và thác Hữu Văn (Hưu Văn). Vào những ngày hè oi nóng này, Quế Phong đang giữa
mùa tắm thác, các dòng thác này ngày đêm ca hát, vang vọng những lời giao
duyên… dòng thác tuôn xả như mái tóc trắng muốt của các nàng tiên nữ, buông dài
như dải lụa, bồng bềnh giữa màu xanh của thượng nguồn. Một món quà tặng độc đáo
của thiên nhiên, không phải nơi nào cũng có được. Thác Sao Va có cái hồ nước lớn
nơi chân thác. Hồ nước này nhìn có vẻ hiền từ nhưng lại có độ sâu ít ai đo được.
Theo bà con ở đây kể lại, hồ nước này có độ sâu hai mươi sải tay, tương đương với
ba mươi mét . ở độ sâu ba mươi mét, với con người bình thường, không có thiết bị
lặn hỗ trợ thì không thể xuống được tới đáy hồ. Vì vậy, dưới đáy hồ này như thế
nào cũng chỉ là phỏng đoán của bà con ở đây. Bởi thực sự chưa có ai lặn xuống đến
đáy hồ. Đến đây nhìn hồ nước, nếu thả dòng tư duy ngược thời gian về theo năm
tháng, chúng ta sẽ thấy hồ nước này có nhiều điều thật khó hiểu.
Hàng năm, về
mùa mưa lũ, nơi thượng nguồn sẽ có lũ lớn đổ về, cùng với độ dốc hai bên sườn
núi sẽ làm cho đất đá lở xuống và tấp về hồ nước này không ít. và đã có đến
hàng triệu trận lũ lớn chảy qua nơi hồ nước này trong hàng nghìn năm về trước.
Nhưng số đá lớn đó xuống hồ rồi trôi đi đâu, về đâu? Mà hồ nước vẫn xanh trong
thăm thẳm, đây thực sự là một điều bí hiểm. Hiện nay, hồ nước này ngày ngày vẫn
cung cấp cho bà con một nguồn thức ăn không ít. Cá ở các khe suối nơi thượng
nguồn của Quế Phong khá dồi dào, chỉ cần có biện pháp bảo vệ tốt thì trong vài
ba năm là số lượng cá tăng lên đáng kể. Lúc ấy, nghề câu cá lại là một thú vui được
nhiều người ưa chuộng.
Thác Sao Va một
dòng thác mang nhiều câu chuyện huyền thoại và vẻ đẹp của nó cũng thật đắm say
lòng người. Dòng thác cao nhưng không dữ dằn, thậm chí còn mềm mại như mái tóc
của một cô gái ở tuổi trăng tròn.
Mùa hè du khách
đến đây, được thả mình trong dòng suối mát, được ngắm thác Sao Va và ăn đặc sản
núi rừng, nhím, lợn ri, mang, vịt bầu Cắm Muộn,
thịt gà đen Tri Lễ, lợn nít, cơm lam… thật lý tưởng cho những ai mang ý định
ngược nguồn.
Quế Phong, nơi sơn
cùng thuỷ tận về phía Tây Nghệ An. Nơi có núi non trùng điệp. Với những
dãy Huồi Ho, Con Cặm nối sang dãy Pù Canh Quái có đỉnh Phả Cà Tủn cao gần 2.500
mét, bốn mùa mây phủ. Lắm thác nhiều ghềnh, cùng với những vực sâu thăm thẳm. Biết
bao điều kỳ thú của thiên nhiên đã dệt nên nhiều truyền thuyết, nhiều câu chuyện
huyền thoại. Và chính nơi mảnh đất thượng nguồn này cũng đã lưu giữ được nhiều
câu chuyện mang đậm bản sắc văn hoá vùng miền. Câu chuyện đậm nét nhất và được
tổ chức thành lễ hội hàng năm là câu chuyện về đền Chín gian. Một ngôi đền mang
tính lịch sử của một tộc người, gắn với truyền thống chống giặc ngoại xâm của
các bậc tiền bối nơi rừng thiêng núi thẳm này.
Ngôi đền chín gian nằm trên địa phận xã
Châu Kim. Ngôi đền được chuyển dời về đây từ thế kỷ 18. Con số chín biểu thị
cho chín Mường đoàn kết gắn bó bên nhau chống chọi với thiên nhiên, đánh giặc
ngoại xâm bảo vệ một dải biên thuỳ rộng lớn nơi cửa ngõ miền Tây xứ Nghệ.
Câu chuyện về ngôi đền được bắt đầu
từ ngọn núi Pú Chợ Nhạng, nằm trên dãy Pù Canh Quái mang đầy màu sắc huyền bí. Cách
đây khoảng tám trăm năm, vào đầu thế kỷ 14, có một người tộc trưởng tên là Tạo
Ló ỳ, ông đứng ra mở đất lập Mường. Đứng trước cảnh núi non hiểm trở, vũ trụ
bao la, rừng đầy thú dữ, sông lắm thuỷ quái, ông thấy con người thực sự quá bé
nhỏ và cái mạng sống thật mong manh. Để có thêm dũng khí khai khẩn vùng đất mới,
Tạo Ló ỳ đã lập đền thờ cầu xin Ngọc Hoàng và Công chúa nhà Trời phù hộ. Sau
khi làm ăn phát đạt, sinh được con đàn cháu đống, Tạo Ló ỳ qua đời. Con cháu
các đời sau tiếp tục thờ ông, người đã có công khai bản, lập mường. Từ đó ngôi đền
bắt đầu thờ ba vị: Đó là Ngọc Hoàng, Công chúa nhà Trời và Tạo Ló ỳ. Sau khi lập
đền thờ, Tạo Ló ỳ gặp được mưa thuận, gió hoà, con cháu sinh sôi nảy nở. Họ mở
rộng vùng lãnh thổ ra tận chín Mường. Ngày lễ tế, mỗi Mường thờ một gian. Gian
chính là của mường gốc, gọi là Mường Tôn.
Đến đời cháu là Tào Hiền, vào thế
kỷ 18. Ngôi đền được chuyển về núi Pù Quái hay còn gọi là Pú Cắm. Tiếng Thái là
núi Vàng. Ngôi đền được chuyển từ núi Pú Chợ Nhạng về Châu Kim là cả một câu
chuyện truyền thuyết mang đậm nét tâm linh của bà con dân tộc Thái Tây Bắc Nghệ An. Đến bây giờ câu
chuyện vẫn được lưu truyền trong dân gian của vùng thượng nguồn này.
Ngôi đền được chuyển dời về đây
từ thế kỷ 18, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cùng với những năm tháng chiến
tranh ác liệt, ngôi đền chỉ còn là dấu tích. Năm 2004, thể theo nguyện vọng của
bà con các dân tộc nơi miền Tây xứ Nghệ. Ngôi đền được tôn tạo dựa trên khuôn mẫu
của ngày xưa. Đền kiến trúc kiểu nhà sàn, sử dụng gỗ lim, đền có Chín gian đại
diện cho chín mường. Đứng đầu là Mường Tôn, ngoài ra còn Mường Chón, Mường
Quáng, Mường Hin, Mường Puộc, Mường Miễng, Mường Chứn và Mường Pắn, Mường
Chòng. Tục của đền là hiến trâu. Vào ngày lễ hàng năm từ 13 đến 15 tháng hai âm
lịch, mỗi Mường tế một con trâu. Trước khi làm lễ hiến tế, bà con phải mời thầy
mo về làm đầy đủ thủ tục lễ nghi. Theo phong tục ngày trước, mỗi Mường thờ một
con trâu, ngày nay, phần lễ vẫn được đảm bảo đúng nghi thức cổ truyền song thực
hành việc tiết kiệm nên lễ hội chỉ tế có một con trâu chung cho cả chín Mường.
Đền Chín gian được kiến trúc theo phong
tục truyền thống Thái cổ. Ngôi đền toạ lạc trên một vị trí thuận lợi. Lưng đền
dựa vào dãy Pù Canh Quái, toàn bộ mặt tiền của đền là cánh đồng ruộng bao la,
có con sông Nậm Giải uốn khúc chảy qua. Xa xa là dãy núi bao bọc, cùng với các
bản làng sầm uất, bốn mùa no đủ. Ngôi đền
nằm trên ngọn đồi cạnh con đường quốc lộ 48, thuận tiện cho du khách bốn phương
về vãn cảnh, xin lộc may mắn. Đền Chín gian mang đậm nét tâm linh nên không chỉ
ngày lễ hội, mà hàng năm những ngày lễ, tết, mồng một, ngày rằm hàng tháng, nơi
đây đón nhận không ít du khách thập phương về thăm.
Lễ hội đền chín gian được tổ chức tạo
nên một phong trào uống nước nhớ nguồn, cũng là dịp để bà con ôn lại truyền thống
cha ông khai đất lập mường, truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm, bảo vệ
bờ cõi. Lễ hội hàng năm được du khách về đây thắp nén hương cầu xin may mắn, cầu
cho mưa thuận gió hoà. Ngoài ra lễ hội còn là dịp để trai thanh nữ tú gặp
nhau.
Sau phần lễ là phần hội với nhiều trò vui
chơi đặc sắc, nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ góp phần khôi phục bản sắc văn
hoá vùng miền. Sau 7 năm khôi phục lễ hội, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các
trò chơi dân gian mang đặc trưng của nền văn hoá Thái cổ được bảo tồn và không
ngừng phát triển.
Lễ hội tạo được phong trào văn hóa văn nghệ trong nhân dân chín bản, mười
mường đều tập luyền được các tiết mục hay….các trò chơi dân gian được khôi phục…tạo
không khí phấn khởi tác động vào sản xuất…
Việc duy trì và phát triển bản sắc văn hoá ở Quế Phong đã từng
ngày góp phần làm giàu về mặt vật chất, cổ vũ về mặt tinh thần cho anh em các
dân tộc miền tây Nghệ an, nền văn hoá này sẽ không ngừng được củng cố và phát
huy khi tiềm năng du lịch đang rộng mở nơi huyện vùng cao biên giới này.
Quế phong là một huyện giàu tiềm năng về
nguồn điện năng. Hiện tại, Quế Phong có năm nhà máy thuỷ điện đang xây dựng. Một
ngày không xa, Quế Phong sẽ có hàng nghìn hec ta lòng hồ ngập nước, cân bằng độ
nóng cho miền Tây, tạo nên một vùng khí hậu lý tưởng. Cùng với việc mở mang
giao thông đi khắp mọi vùng, mở ra một mạng lưới giao thông thuỷ - bộ hài hoà.
Bên cạnh đó là vẻ đẹp sẵn có của thiên nhiên ban tặng, cùng với bản sắc văn hoá
từ lễ hội đền Chín gian, giúp Quế Phong trở thành điểm du lịch hấp dẫn nơi vùng
thượng nguồn cho du khách thập phương./.
|