1. Kinh tế có bước phát triển khá, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, sản xuất kinh doanh một số ngành, lĩnh vực
có chuyển biến, tiến bộ:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn bình quân
giai đoạn 2006-2010 đạt 10,10%; trong đó, tăng trưởng các ngành do huyện quản
lý: công nghiệp-xây dựng 18,5%; các ngành dịch vụ 9,90%; nông, lâm, thuỷ sản
4,30%. Tỷ trọng các ngành (phần huyện quản lý): công nghiệp- xây dựng tăng từ
4,6% năm 2005 lên 11,34% năm 2010; các ngành dịch vụ tăng từ 29,2% năm 2005 lên
31,02% năm 2010; nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 66,2% năm 2005 xuống còn 57,64% năm
2010. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt
trên 1.211 tỷ đồng vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Nông, lâm, ngư nghiệp có bước phát triển
khá. Tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 1994) toàn ngành thực hiện đến năm
2010 (do huyện quản lý) đạt 133 tỷ đồng. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt
trên 6.000 ha; trong đó, diện tích lúa nước tăng nhanh từ 4.072 ha năm 2005 lên
4.500 ha năm 2010; năng suất lúa nước đạt khá, dự kiến năm 2010 đạt 47 tạ/ha
tăng so với năm 2005 là 3 tạ/ha. Diện tích lúa rẫy giảm nhanh, đến nay chỉ còn
dưới 400 ha, giảm 150 ha so với năm 2005. Tổng sản lượng lương thực năm 2010 đạt
22.395 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 345,7 kg.
Cơ cấu cây trồng đã được bố trí hợp lý hơn trước,
các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày đã xác định được hướng đi đúng cho
ngành nông nghiệp, trong đó những cây có giá trị kinh tế cao như cây mía nguyên
liệu, ngô,...
Chăn nuôi được xác định là lợi thế của huyện nên
việc đầu tư phát triển tổng đàn được đẩy mạnh; đàn trâu 23.500 con, tăng 2.000
con so với năm 2005; đàn bò 13.200 con, tăng 3.200 con so với năm 2005, trong đó
bò lai sind tăng từ 346 con năm 2006 lên 1.700 con năm 2009, dự kiến năm 2010
đạt 2.100 con; đàn lợn 28.000 con, tăng 6.000 con so với năm 2005; đàn gia cầm
253.000 con, tăng 73.000 con so với năm 2005; đàn vịt bầu đã được đầu tư khôi
phục và phát triển. Sản lượng thịt hơi xuất bán và giết thịt hàng năm đạt bình
quân trên 2.000 tấn, đến năm 2010 ước đạt 2.494 tấn. Số bản đã được quy hoạch
vùng chăn thả tăng từ 28 bản năm 2006 lên 80 bản; đầu tư con giống từ các chương
trình dự án và công tác thú y được chú trọng.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ước đạt 190ha, sản
lượng 307 tấn tăng 70,5% so với năm 2005.
Lĩnh vực lâm nghiệp tăng trưởng khá; việc lồng
ghép các chương trình dự án đầu tư như chương trình 661, Quyết định 147, chương
trình trồng rừng thay thế nương rẫy, chương trình hỗ trợ theo Nghị quyết 30a của
Chính phủ và đầu tư sản xuất trang trại đã tổ chức trồng được 2.372 ha rừng tập
trung, 190,2 ha rừng phân tán; tổ chức khoanh nuôi, bảo vệ 141.211,79 ha, từ đó
đã đưa độ che phủ rừng tăng từ 71,6% lên trên 75%. Không xảy ra cháy rừng. Khai
thác lâm sản phụ tăng hàng năm, dự kiến đến năm 2010 đạt 120.000m3
củi, 2.020.000 cây tre mét, 3.050.000 cây nứa, 1100 tấn măng tươi và nhiều
lâm sản phụ khác có giá trị kinh tế cao.
Công tác xây dựng phát triển nông thôn mới được
quan tâm và đạt một số kết quả đáng ghi nhận. Tổ chức thực hiện tốt các chính
sách về ổn định đời sống và sản xuất cho nhân dân, như chương trình xoá nhà ở
dột nát tạm bợ, hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, trợ cước, trợ giá các mặt hàng
chính sách, hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao năng lực quản lý điều hành.
Từng bước giải quyết vấn đề ăn, ở, học hành, chữa bệnh và hưởng thụ văn hoá cho
nhân dân. Triển khai tốt dự án tái định cư Piếng Luống, xã Nậm Giải; bản Tục và
bản Pang xã Đồng Văn; quy hoạch dân cư biên giới theo Quyết định 160TTg; dự án
di dân ra khỏi vùng lũ quét; giải phóng mặt bằng và tái định cư công trình thuỷ
điện Hủa Na và các công trình giao thông trên địa bàn.
Mô hình kinh tế trang trại nông, lâm, thuỷ sản
kết hợp tăng nhanh theo từng năm, đến nay toàn huyện có 127 trang trại, trong đó
có 67 trang trại cho thu nhập bình quân mỗi năm từ 25-30 triệu đồng.
Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp (CN, TTCN), đầu tư xây dựng chuyển biến rõ nét; tổng giá trị sản
xuất (giá so sánh 1994) năm 2010 (do huyện quản lý) đạt 43 tỷ đồng, góp phần
tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm cho người lao động. Các
sản phẩm tiểu thủ công nghiệp ngày càng đa dạng, sản phẩm chủ yếu là khai thác
mỏ, vật liệu xây dựng, mộc dân dụng, gò hàn, may mặc vv.. Đầu tư xây dựng 06 nhà
máy thủy điện, đã hoàn thành và phát điện 02 nhà máy với tổng công suất
21MW.
Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển khởi
sắc, tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 1994) năm 2010 (do huyện quản lý)
đạt 84 tỷ đồng; hệ thống nhà nghỉ, ăn uống, vận tải và bưu chính viễn thông,
internet tăng khá nhanh và kinh doanh có hiệu quả cao. Tổng mức bán lẻ hàng hoá
và dịch vụ tăng từ 167,6 tỷ đồng năm 2005 lên 442 tỷ đồng năm 2010; các cơ sở
kinh doanh cá thể liên tục tăng, đến cuối năm 2009 có 403 cơ sở kinh doanh cá
thể trong tổng số 450 cơ sở kinh doanh toàn huyện. Đã có 11/14 xã thị được sử
dụng được điện thoại di động, 14/14 xã thị sử dụng được điện thoại cố định, đưa
tổng số máy cố định trên địa bàn từ 1.200 máy năm 2005 lên hơn 3.200 máy năm
2010; bình quân 5 máy/100 dân. 120 thôn bản của 11/14 xã, thị trấn được sử dụng
điện lưới quốc gia, đưa tỷ lệ hộ dân được dùng điện lưới lên 64,26%. Số hộ dân
sử dụng nước sinh hoạt tương đối hợp vệ sinh đạt 80%.
Thu ngân sách có bước tiến bộ vượt bậc,
tổng thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều tăng ở mức trên 150%, năm 2010 ước
thu ngân sách đạt 9,6 tỷ đồng, tăng 7,4 lần so với năm 2005. Chi ngân sách đáp
ứng các nhu cầu cho hoạt động quản lý và sự nghiệp, tạo điều kiện cho chi đầu tư
phát triển.
Hoạt động tín dụng và tiền tệ có nhiều chuyển
biến tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân vay vốn đầu tư sản
xuất, kinh doanh. Số dư huy động vốn năm 2005 đạt 45 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt
231 tỷ đồng. Số dư nợ cho vay năm 2005 đạt 55,6 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt 156 tỷ
đồng.
2. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-
xã hội đã được chú trọng đầu tư làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt huyện
nhà:
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội do Trung ương, bộ
ngành quản lý tăng từ 496 tỷ đồng năm 2006 lên 1.837 tỷ đồng năm 2010; do địa
phương quản lý tăng từ 90 tỷ đồng năm 2006 lên 530 tỷ đồng năm 2010; trong đó
xây dựng cơ bản 490 tỷ đồng. Giá trị thực hiện Giao thông nông thôn đạt 150 tỷ
đồng, xây dựng được 55,4 km đường nhựa, 8 km đường bê tông. Một số công trình
trọng điểm đã và đang được thi công: Đường Tiền Phong-Hạnh Dịch, đường vào trung
tâm xã Đồng Văn, Nậm Nhóng, đường Kim Sơn-Quế Sơn; Cầu treo bản Quàng xã Châu
Thôn, cầu treo bản Quyn- bản Pảo xã Quang Phong, cầu treo bản Long Quang xã Tiền
Phong. Có thêm 06 xã được dùng điện lưới quốc gia, các công trình thủy lợi, nước
sạch được đầu tư sửa chữa, xây dựng mới; số phòng học được kiên cố hoá đạt
52,2%; ngoài ra hàng năm nhân dân tự huy động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
nhiều tỷ đồng.
Công tác quy hoạch phát triển đô thị đã được chú
trọng, hoàn thành quy hoạch mở rộng thị trấn Kim Sơn, hoàn chỉnh đầu tư về kết
cấu hạ tầng 2 trung tâm cụm xã Châu Thôn và Đồng Văn; đang chuẩn bị triển khai
xây dựng bằng vốn lồng ghép chương trình 30a CP cụm xã Tri Lễ.
3. Công tác quản lý tài nguyên và môi
trường đã được chú trọng, hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất cấp huyện, cấp xã đến năm 2010; đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân (trong đó đất lâm nghiệp đạt 100%, đất
ở đô thị đạt trên 80%); rà soát việc sử dụng đất của các tổ chức trên địa
bàn...; tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành Luật khoáng sản, khai thác
khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, truy quét khai thác khoáng sản trái
phép.
4. Văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ,
bản sắc văn hoá các dân tộc được quan tâm giữ vững và phát huy; đời sống văn hoá
và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao:
Lĩnh vực giáo dục và
đào tạo có bước chuyển biến rõ nét; thực hiện
cuộc vận động “hai không” đã đem lại hiệu quả thiết thực; 100% giáo viên đạt
chuẩn và đạt trên chuẩn 48%, số học sinh giỏi và giáo viên dạy giỏi các cấp ngày
càng tăng. Số học sinh thi đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng ngày càng cao,
trong đó có nhiều học sinh người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn. Mạng
lưới trường lớp ở tất cả các bậc học, ngành học được bố trí khá hợp lý. Cơ sở
vật chất trường, lớp học từng bước được cải thiện theo hướng kiên cố hoá. Việc
xây dựng trường chuẩn quốc gia, trường chất lượng cao đã được quan tâm chỉ đạo.
Công tác khuyến học đã được quan tâm, bước đầu hình thành một số mô hình khuyến
học trong các cơ quan, dòng họ, thôn bản khá hiệu quả. Đến nay đã có 10 trường
được công nhận đạt chuẩn Quốc gia mức 1 và 1 trường đạt cấp độ 2, có 578 phòng
học được kiên cố hoá.
Hoạt động khoa học, công nghệ đang từng
bước hướng vào mục tiêu đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào phục vụ sản xuất
và đời sống, nâng cao hiệu quả công tác trên các lĩnh vực.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân
dân ngày càng được quan tâm; thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, 96 % trẻ
dưới 1 tuổi được tiêm phòng đầy đủ; bệnh sốt rét và một số bệnh dịch khác được
khống chế. Y tế cơ sở được củng cố, cơ sở vật chất, trang thiết bị được bổ sung
từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân; 10/14 xã thị có bác sỹ,
7/14 xã thị được công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Công tác dân số-gia đình và trẻ em đã
được triển khai bằng nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động và đã đem lại kết
quả thiết thực. Số người sinh con thứ ba trở lên giảm dần, đã đưa tỷ lệ sinh
giảm từ 16‰ năm 2005 xuống 14,4‰ năm 2010, trong đó tỷ lệ sinh con thứ 3 đến
năm 2010 giảm xuống còn 9,8%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi từ 31,5%
năm 2005 xuống còn dưới 23% năm 2010.
Các hoạt động văn hoá, thể thao ngày
càng phát triển sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân; cơ sở vật chất phục vụ cho
văn hoá, thông tin- thể thao của các cơ sở được đầu tư bằng các chương trình, dự
án đã góp phần đưa thông tin về cơ sở, tuyên truyền những chủ trương, chính
sách, vận dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất; công tác cải tạo tập tục lạc hậu
nhất là trong việc cưới, việc tang, ăn ở hợp vệ sinh đã có những chuyển biến rõ
nét. Khôi phục và bước đầu phát huy có hiệu quả di tích lịch sử văn hóa Đền Chín
gian và các hoạt động mang đậm bản sắc văn hoá đồng bào các dân tộc miền Tây
Nghệ An. 70% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 35% xóm, bản đạt tiêu
chuẩn “ Làng Văn hoá”.
Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo,
thực hiện các chính sách an sinh xã hội được quan tâm chỉ đạo; mỗi năm tạo việc
làm mới cho 700 đến 1.500 lao động, trong đó đưa đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài từ 100 đến 120 người. Tập trung hướng dẫn các xã, thị xây dựng các dự án
vay vốn nhỏ, giải quyết việc làm tại chỗ cho người dân. Đã huy động mọi nguồn
lực và tổ chức xóa xong 2.689/2.689 hộ có nhà ở dột nát tạm bợ, góp phần hạ tỷ
lệ đói nghèo từ 59,51% năm 2005 xuống còn 40,08% năm 2010. Thu nhập bình quân
đầu người (giá hiện hành) tăng từ 4,26 triệu đồng năm 2005 lên 10,15 triệu đồng
năm 2010; trong đó phần huyện quản lý 7,07 triệu đồng. Làm tốt công tác chăm sóc
người có công, thường xuyên quan tâm chăm lo các đối tượng bảo trợ xã hội theo
Nghị định 67/CP, Nghị định 13/CP; chỉ đạo tốt công tác cứu trợ cho đồng bào bị
ảnh hưởng do lũ, lốc và trong dịp đói giáp hạt.
5. Quốc phòng, an ninh ngày càng được
củng cố, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, góp phần ổn định chính
trị:
Năm năm qua, mặc dù tình hình thế giới, khu vực,
trong nước cũng như phía Tây tỉnh Nghệ An diễn biến phức tạp nhưng an ninh chính
trị luôn được củng cố và giữ vững. Lực lượng vũ trang huyện đã làm tốt chức năng
tham mưu kịp thời cho cấp uỷ, chính quyền để đề ra chủ trương và giải pháp sát
đúng, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về “Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác
quân sự địa phương đạt hiệu quả cao. Nhận thức về đường lối quân sự - quốc phòng
của Đảng đối với các cấp, các ngành từng bước được nâng lên. Từ đó việc triển
khai thực hiện có nhiều chuyển biến tích cực, rộng khắp. Thông qua những mục
tiêu và chỉ tiêu trên giao, chúng ta đã thực hiện tốt mọi nhiệm vụ: từ tổ chức
xây dựng lực lượng vũ trang, giáo dục quốc phòng, huấn luyện chiến đấu, hoàn
thành xuất sắc diễn tập khu vực phòng thủ cũng như động viên tuyển quân và thông
qua việc xây dựng cơ sở ATLC-SSCĐ đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội, củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn ổn định, không để đột xuất, bất ngờ xảy ra. Lực lượng công an
huyện không ngừng phát triển vững mạnh, làm tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ,
chính quyền tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 08/BCT của Bộ
Chính trị về “Chiến lược an ninh quốc gia”. Chủ động phối hợp với các cơ quan,
ban, ngành, đoàn thể giáo dục tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác cho nhân
dân, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thực hiện tốt kế hoạch
“2 yên, 4 giảm”. Tăng cường đấu tranh triệt phá nhiều đường dây, tụ điểm, đối
tượng phạm tội ma tuý, các ổ nhóm trộm cắp tài sản, hoạt động tệ nạn xã hội.
Đồng thời phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật làm tốt công tác điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đúng pháp luật. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; góp phần
đảm bảo tốt an ninh trật tự, tạo môi trường thuận lợi phục vụ tốt sự nghiệp phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội và ổn định đời sống của nhân dân.
Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
được tiến hành khá thường xuyên và kịp thời, góp phần ổn định an ninh trật tự,
không để xẩy ra “điểm nóng”.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, quan hệ
hữu nghị đặc biệt với huyện Xăm Tảy (Lào). Thực hiện tốt chế độ giao ban xã,
huyện, các ngành nội chính với bạn; giải quyết tốt các vấn đề về di dịch cư, hồi
cư, xâm canh... góp phần bảo vệ an ninh biên giới và phát triển kinh tế - xã hội
của huyện.
Đạt được những kết quả trên chính là nhờ sự
quan tâm giúp đỡ, đầu tư có hiệu quả của Trung ương, của tỉnh; sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh; sự nỗ lực phấn đấu
của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện nhà; các chương trình, dự án đầu
tư trên địa bàn đã góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
|